Ảnh: Internet
 Vùng  trung châu và đồng bằng Bắc bộ là cái nôi của chèo, từ cái nôi ấy sau  bao nhiêu thăng trầm của lịch sử nghệ thuật chèo ngày càng phát triển và  khẳng định được tầm quan trọng trong nền văn hóa dân gian dân tộc.  
   Chèo thường diễn trong các hội hè đình đám khắp vùng đồng bằng và trung  châu miền Bắc mấy tháng Xuân, Thu hàng năm trước đây, mà không ít người  xem đã thuộc làu cả tích, chí ít cũng đôi đoạn, dăm câu, khen chê tài  diễn của nghệ nhân đâu ra đấy. Vì thế, đã có người đặt chèo vào loại sân  khấu hội hè, vừa để nói tính quần chúng vừa nói đến cái cười trong diễn  xuất của nó.  
   Song không mấy loại sân khấu hội hè ở phương Tây thế kỷ XV hoặc XVI với  phần lớn kịch ngắn vui nhộn diễn cương. Chèo cũng có số nhân vật chuyên  làm hề và không ít nhân vật "’đá" vào pha trò đây đó, dùng kể chuyện  hoặc hát múa gây cười, lấy ứng tác ứng diễn là chính và dẫu chiếm thời  gian dài của đêm hát, song những đoạn trò cười đó còn rời rạc, ít ăn  nhập với tích trò (thường mang tính bi).  
   Có thể nói nghệ thuật chèo mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam, chèo sử  dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính  tự sự trữ tình. Ðặc biệt hơn là tính tổng hợp của sân khấu chèo từ bản  trò, đến đề tài nhân vật với sự "pha âm cách điệu" giữa âm nhạc, hát và  múa. Sân khấu chèo xưa ra đời từ các làng chèo với các múa hội hát. Cứ  mỗi độ xuân sang người muôn nơi lại bồi hồi bởi sự thúc giục của trống  chèo và những lời ca tiếng hát của nghệ nhân làng chèo. Người xưa có câu  "nhất cử động giai điểm vũ" điều đó biểu hiện nét đặc trưng của nghệ  thuật chèo là "tính múa", những diễn xuất tinh tế của nghệ nhân chèo đều  ở điểm này mà ra. Với đôi bàn tay khéo léo từng cử chỉ, động tác đã  toát lên cái "thần" của nhân vật, qua đó thấy được thành công của người  diễn.  
   Từ mùa xuân rồi tới mùa thu trong các hội hè đình đám ở khắp vùng đồng  bằng Bắc bộ không khi nào thiếu vắng tiếng hát chèo. Cũng chính vì thế  mà chèo mang tính quần chúng và được gọi là loại hình sân khấu của hội  hè. Công chúng đam mê chèo bởi khi đến với sân khấu chèo có thể tận  hưởng niềm vui từ những tiếng cười châm biếm đả kích sắc và tinh tế.  Trong mỗi vở diễn, mỗi tình tiết, mỗi lớp nhân vật của chèo đều có cái  hài xen kẽ với cái bi, người xem bao giờ cũng coi trọng những yếu tố đó.  Người xưa thường nói "có tích mới nên trò" điều đó khẳng định tích  chuyện là linh hồn của vở diễn. Cũng chính vì vậy mà chèo được đánh giá  là loại hình sân khấu kịch hát kể chuyện dân tộc. Ðiều này đã làm nên  đặc điểm cơ bản của nghệ thuật chèo cổ. Không những thế chèo còn thuộc  loại sân khấu ước lệ cách điệu, sự khoa trương- tô phóng có tính chọn  lọc đã làm nổi bật hơn những góc cạnh đặc trưng của nghệ thuật chèo-  những mảng chèo đặc sắc được ra đời từ nhân tố đó.
  
   Ở thời nào nghệ thuật đều chứng tỏ những nét tương đồng với lối sống  của xã hội thời đó. Thời xưa chèo mang đậm dấu vết của những điệu múa  dân gian, hàng loạt lễ tiết của phần cúng tế trong các hội làng ở miền  bắc Việt Nam. Trong con đường phát triển của nghệ thuật chèo có hình  thức tương hợp song song với sự phát triển và sáng tạo. Chèo hiện đại  (chèo cải biên) đã khẳng định được vị thế của mình với những vở diễn và  hình tượng con người mới nhờ sự bảo tồn và phát huy truyền thống của  nghệ thuật chèo cổ, xứng đáng tiêu biểu cho nghệ thuật sân khấu dân tộc.   
   Đã có một thời, Hội chèo đôi khi kéo dài cả tuần lễ, mặc dầu còn lâu  mới đến Hội nhưng trong mỗi gia đình nông dân đều đã có sự chuẩn bị tham  gia kỳ Hội với những vai chèo yêu thích. Trong các vở chèo cổ thường  vạch mặt bọn quan lại phong kiến và thực dân áp bức giống nòi. Ơở các vỡ  diễn, người nông dân thấy được sự phản ánh đời sống của mình với những  mặt tích cực và phản diện, những ước mơ và ý niệm của mình về cái thiện  và cái ác. Mọi người đã yêu và càng yêu nghệ thuật chèo bởi tính nhân  đạo và sự tươi mát của nó, và bởi nó mang màu sắc dân tộc độc đáo. 
   Những vở chèo – đó là các mẩu chuyện sân khấu của những tiểu thuyết thi  ca, nó đặc trưng bởi chất thơ mộng, hành văn nhuần nhuyễn, nó có những  truyền thống lâu đời của thi ca phương Đông. Ngoài việc chèo là một nghệ  thuật được nảy sinh từ quần chúng nông dân, nó còn được sử dụng rất  nhiều tục ngữ và ca dao dân gian do nhân dân sáng tạo ra qua hàng ngàn  năm. 
   Nghệ thuật cơ bản trong các vai của diễn viên là múa mà qua đó nó có  thể hiện được tất cả sự uyển chuyển nhịp nhàng của con người. Những nghệ  nhân lớp trước thường nói rằng: "Múa hình tượng đẹp đẽ của nội tâm".  Song song với cái đó, điệu múa trong chèo không hoàn toàn mang tính trừu  tượng và tượng trưng, ước lệ như một số loại hình nghệ thuật thông  thường khác bởi một lẽ nguồn gốc của nó là những hình ảnh sinh hoạt, lao  động qua các buổi diễn ở nông thôn. 
   Trải qua biết bao thế hệ, đến hôm nay những người con đất Việt – cả  những người đang sống trên đất nước Việt Nam và những kiều bào ở xa tổ  quốc, luôn coi nghệ thuật chèo là một "viên ngọc long lanh sắc màu"  trong kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian dân tộc. 
 Kinh đô Hoa Lư   –   Ninh Bình  được coi   là đất tổ của sân khấu chèo ,        và người   sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh        vào thế kỷ 10 .        Sau này loại hình nghệ thuật biểu diễn này đã được   phát triển rộng ra đồng bằng Bắc Bộ. Địa bàn phố biến từ Nghệ – Tĩnh trở        ra. 
  Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước  của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội  để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Từ thiên  niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, họ đã biết biểu diễn các vở chèo đầu  tiên trên sân đình. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống  là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống  để cầu mưa và biểu diễn chèo. 
  Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ  10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của  chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. 
  Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ  quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là  một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt  Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh  hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần  hát. 
  Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong  cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Do không được triều đình  ủng hộ, chèo trở về với những người hâm mộ ban đầu là nông dân, kịch bản  lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được  phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt  đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị  Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn  này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích  truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở  tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở  thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích  truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai. (Còn tiếp…)  
(Nguồn: Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch  Việt Nam) 
  
 
The player then has to decide whether or not to take another card or stick to the existing hand . You can maintain taking playing cards until you select to stop or 안전바카라 go over 21. Tap the chips to adjust your guess, and watch the fashionable and superbly animated playing cards fly onto the desk. If you are unsure of your strategy, ask the supplier for a hint at any time. Easy-to-read prompts allow you to rapidly add up your playing cards and make it simple that you just can} decide whether or not you must to} take successful or stand. This entails a number of} educated Card Counters working collectively.
Trả lờiXóa